Kinh Nhật Tụng: Thành Đội Mới Mở Mang

Rate this post

Hãy cùng tôi khám phá bức tranh tuyệt đẹp về Kinh Nhật Tụng – một bộ kinh linh thiêng của Phật giáo. Nhật Tụng là bộ kinh được tán thành, từ tâm và tỏ lòng biết ơn đối với Thiên Chúa và những linh hồn cao cả. Thông qua việc từ tâm, chúng ta có thể thấy rằng mọi sự vĩnh viễn đến từ một nguồn sáng tạo vô hạn.

Tán Phật: Tán Thán Đấng Pháp Vương

Đấng Pháp vương vô thượng, Ba cõi chẳng ai bằng. Thầy dạy khắp trời người, Cha lành chung bốn loài. Quy y tròn một niệm, Dứt sạch nghiệp ba kỳ, Xưng dương cùng tán thán, Ức kiếp không cùng tận.

Nhật Tụng bắt đầu bằng sự tán thán và kính trọng đấng Pháp vương, người vượt trội hơn bất kỳ ai khác trong ba vùng trời và có thể giúp chúng ta thoát khỏi muộn phiền và đạt tới thánh thiện.

Quán Tưởng: Thấy Vẻ Quang Sáng Của Phật

Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng. Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn. Lưới đế châu ví đạo tràng, Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời. Trước bảo toạ thân con ảnh hiện. Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.

Quán Tưởng nhắc nhớ về vẻ quang sáng của Phật và ý nghĩa của việc quy y vào Đạo. Chúng ta cần nhận thức rằng tâm tĩnh lặng và sự cam kết quy y là cách để đạt được sự thông tuệ và hiểu biết đúng đắn.

Lễ Phật: Tôn Kính Tam Bảo

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng thường trụ Tam Bảo. (1 lạy)

Lễ Phật là lời khẩn cầu tôn kính và quy y vào Tam Bảo của Thiên Chúa và các tín đồ học đạo. Chúng ta cầu nguyện để tôn trọng và tôn phật, bồ tát, và linh hồn cao cả từ các vùng trời khác nhau.

Tản Lữ Hương: Vị Thơm Của Kinh Giới

Lò hương vừa bén chiên đàn, Khắp xông pháp giới đạo tràng mười phương. Hiện thành mây báu kiết tường, Chư Phật rõ biết ngọn hương chí thiềng. Pháp thân toàn thể hiện tiền, Chứng minh hương nguyện phước liền ban cho. Nam mô Hương Vân Cái Bồ-tát Ma-ha-tát. (3 lần)

Tản Lữ Hương là một phần quan trọng trong kinh Nhật Tụng, nhắc nhớ về mùi thơm của kinh giới trong các đạo tràng và sự ghi nhận của Chư Phật về việc niệm Phật và hương nguyện của chúng ta.

Chú Đại Bi: Niệm Phật Đại Bi

Nam mô Đại bi Hội thượng Phật Bồ-tát. (3 lần) Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị đa, bà lô kiết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đoả bà da, ma ha tát đoả bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án, tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát toả. Nam mô tất kiết lật đoả, y mông a rị da, bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án, a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đoả, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô, ma ra, hô lô hô lô, hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà dủ nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lợi thắng kiết ra dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam mô a rị da bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha. Án, tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. 

Chú Đại Bi là một chú niệm quan trọng trong Phật giáo. Khi niệm chú này, chúng ta mang đến cho mình trí tuệ vô biên và sự giải thoát khỏi khổ đau. Niệm Chú Đại Bi giúp chúng ta giải thoát từ kiếp nạn và đạt được sự an trí và thanh tịnh.

Kệ Khai Kinh: Hiểu Biết Về Đạo Phật

Phật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu. Trăm nghìn muôn kiếp khó tìm cầu. Con nay nghe thấy chuyên trì tụng. Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu. Nam mô Thập phương thường trụ Tam Bảo. (3 lần)

Kệ Khai Kinh là một phần quan trọng trong Kinh Nhật Tụng, khuyến khích chúng ta hiểu rõ về đạo Phật và cam kết tu tập để hiểu biết đích thực về ý nghĩa và trách nhiệm của mình.

Kinh Tám Điều: Hiểu Rõ Nguyên Tắc Đạo Phật

Kinh tám điều người trên hiểu biết, Con Phật thời nên hết đêm ngày. Dốc lòng tụng niệm không ngơi, Tám điều hiểu biết của người bậc trên. Thứ nhất biết thế gian không chắc, Hiểu rõ ràng cõi nước yếu nguy. Thân này nào có ra chi, Đất nước, gió, lửa, hợp về lại tan. Luống những chịu muôn ngàn đau khổ, Ngũ ấm không còn có mình sao? Khác nào như cảnh chiêm bao, Biến thiên sanh diệt ai nào chủ trương. Lòng này chính là nguồn độc ác, Đem thân ra gánh vác tội tình. Nay đà xem xét cho rành, Dần dần xa lánh tử sanh có ngày. Điều thứ hai ta đây hiểu biết, Ham muốn nhiều chỉ mệt mà thôi. Chết đi sống lại bao đời, Tham là gốc khổ mấy người tỉnh đâu. Ham muốn ít, không cầu cạnh mấy, Thân tâm đều tự tại tiêu dao. Điều thứ ba rõ trước sau, Lòng không chán đủ tham cầu không ngơi. Gây nên tội tầy trời tầy bể. Bồ-tát không như thế bao giờ, Biết vừa nên chẳng cầu dư. Phận nghèo giữ Đạo sớm trưa an nhàn. Cốt sao cho trí khôn sáng tỏ. Điều thứ tư cũng rõ gót đầu, Biếng lười sa xuống vực sâu. Nên cần tinh tiến để cầu tiến lên, Phá sạch hết điều phiền não trước. Bốn con ma dẹp hết là xong, Ngục ngũ ấm thoát khỏi vòng. Thứ năm biết rõ thuỷ chung muôn loài, Thuần chỉ những sống say, chết ngủ. Bồ-tát thường lấy đó làm lo, Học hành chẳng quản công phu. Nghe nhiều học rộng cốt cho thành tài. Trí tuệ lớn vẹn đầy sau trước, Dạy muôn loài đều được an vui. Sáu là hiểu rõ đầu đuôi, Nghèo cùng khổ não lắm người thù riêng. Thường mắc phải ác duyên hoạnh hoạ, Bồ-tát cho khắp cả muôn loài, Một niềm bình đẳng không hai, Oán thân như một, lòng đầy từ bi. Điều xấu cũ không hề vướng vít, Kẻ xấu xa chẳng ghét không chê. Thứ bảy biết ngủ nghê ăn uống, Danh, sắc, tài, ham muốn là nguy. Dù chưa thay đổi hình nghi, Còn là người tục chẳng mê thói đời. Áo bát pháp đêm ngày tưởng nhớ, Theo đạo mầu chỉ cố xuất gia. Giữ gìn trong ngọc trắng ngà, Nết thanh cao giữ thật là thanh cao, Lòng từ bi lúc nào cũng đủ. Thứ tám là biết rõ tử sanh, Khác nào lửa cháy bên thành. Chứa chan khổ não nghĩ tình xót thương. Mở lòng rộng tìm đường cứu vớt, Thay muôn loài chịu hết đắng cay, Khiến cho hết thảy muôn loài, Đều cùng giải thoát tháng ngày yên vui. Tám việc trước là nơi chư Phật, Cùng các ngài Bồ-tát đại nhân. Đều cùng hiểu rõ nguồn cơn, Từ bi trí tuệ sửa tròn trước sau. Làm việc đạo bấy lâu tinh tiến, Thuyền Pháp thân chở đến Niết-bàn. Là nơi yên tĩnh an nhàn, Lại về cõi khổ cưu mang muôn loài. Tám việc trước ta đây hiểu biết, Mở đường ra cho hết thảy đi. Khiến bao loài trước ngu si, Biết sống chết khổ, bỏ lìa muốn năm. Theo đạo chính tận tâm tu tập, Nếu quả là con Phật tụng đây. Trong khi nghĩ tám việc này, Bao nhiêu tội lỗi tức thời sạch ngay. Đạo Bồ-đề thẳng tới nơi, Lên ngôi Chánh Giác chỉ giây phút thành. Đoạn tuyệt hẳn đường sanh nẻo tử, Đời đời thường ở chỗ yên vui. 

Kinh Tám Điều là một bước tiến trong việc hiểu rõ nguyên tắc của đạo Phật. Bằng cách tu tập và áp dụng tám nguyên tắc này, chúng ta có thể thoát khỏi đau khổ và đạt được sự an lạc và bình yên trong cuộc sống.

Kinh Từ Tâm: Từ Tâm Và Tôn Kính

Tôi từng nghe kể như vầy, Một thời Xá Vệ, tại ngay Kỳ Hoàn. Thế Tôn cho gọi chúng Tăng, Các thầy cung kính “thưa vâng” đáp lời. Thế Tôn thuyết giảng những lời, Liên quan tu tập nên người từ tâm, Là người rất đỗi ân cần, Thương yêu trải khắp kẻ gần người xa. Tấm lòng nhân ái bao la, Thật là thuần khiết, thật là cao thâm. Hướng về tất cả chúng sanh, Người từ tâm trọn quên mình mà thương, Không vì ái luyến vấn vương, Không vì mong đợi chút đường lợi danh, Không vì ân nghĩa riêng đành, Không vì cân nhắc với mình lạ quen. Thương người quen lẽ tất nhiên, Cũng thương những kẻ chưa quen bao giờ. Xoá đi ngăn cách thân sơ, Xoá đi ngần ngại hững hờ bấy lâu. Tình thương lan toả đến đâu, Giúp xây nơi ấy nhịp cầu cảm thông. Người từ tâm đủ bao dung, Đủ lòng độ lượng, đủ lòng thương yêu. Với người mưu hại đủ điều, Bất nhân ác cảm gây bao hận thù. Người từ tâm trước như sau, Trải lòng ra mãi, đậm sâu thương người. Với người oán ghét bao đời, Nguồn thương yêu ấy làm vơi tị hiềm. Chuyện không hay chẳng trách phiền, Cho vơi bớt những nghiệp duyên với người. Người từ tâm trước muôn loài, Đem lòng thương xót cảnh đời không may. Thương người sống kiếp đoạ đày, Làm thân cầm thú nghiệp gây chẳng lành. Hoặc loài ngạ quỷ vô hình, Hoặc trong địa ngục, tội tình vương mang. Từ tâm như ánh trăng ngàn, Dịu dàng soi thấu mọi đường trầm luân. Ở đâu có chúng hữu tình, Thì nơi ấy có từ tâm hướng về. Như tàng lá mát rộng che, Chúng sanh vô lượng, tâm từ vô biên. Tâm từ như suối triền miên, Thấm vào mạch sống mọi niềm an vui. Tâm từ làm gốc vun bồi, Cho người cao thượng, cho đời vinh hoa. Thấy người khổ nạn khó qua, Lòng mình đau xót như là khổ chung. Thấy người hạnh phúc thành công, Lòng mình sung sướng như cùng vui theo. Thấy người lầm lỗi ít nhiều, Lòng mình tha thứ, mến trìu càng hơn. Người từ tâm sống vẹn tròn, Thương yêu bình đẳng, sắt son bền lòng. Cho dù không ước không mong, Phước lành tự đến do công đức thành. Một là ngủ được an lành, Bởi lòng mình đã chân thành thương yêu. Bởi không lừa lọc dệt thêu, Bởi không toan tính lắm điều chua ngoa. Tâm tình không gợn xấu xa, Tham lam, sân hận, si mê mịt mờ. Đầu hôm đến lúc tinh mơ, Khổ ưu lặng tắt, thới thơ giấc nồng. Hai là rời bước khỏi giường, Lòng mình một mực bình thường yên vui. Khi đi đứng, lúc nằm ngồi, Không còn tiếc nhớ đua đòi ước ao. Từ tâm hoá giải đẹp sao, Muộn phiền, sân hận tan vào hư không. Lòng mình luôn giữ trắng trong, Nguồn an lạc trải tựa đồng bao la. Ba là từ ái lan xa, Làm cho cảm ứng chan hoà cùng nhau. Ai ai cũng thấy mến yêu, Đem lòng ngưỡng mộ người nêu tâm từ. Bốn